Tứ chẩn trong y học dân tộc (vọng, văn, ván, thiết). Tứ chẩn trong y học hiện đại (nhìn, sờ, nắn, nghe) đều coi việc nhìn vào người là một thủ pháp chẩn đoán bệnh. Việc quan sát xem boi tình trạng bên ngoài của phần mặt vẫn là một bộ phận hợp thành quan trọng trong nhìn người đoán bệnh. Bởi vì dáng, nét mặt của con người thể hiện rõ cơ bắp đầy đặn khoẻ mạnh, huyết mạch lưu thông đầy đủ, lại là nơi tập trung chi phối thần kinh của đầu do đó rất nhiều nbệnh tật của con người biểu hiện ra một cách tương ứng dáng nét điển hình ở trên mặt.
Dáng nét mặt của người bình thường, khoẻ mạnh: mắt và lông mày trông thanh tú, đôi mắt tinh anh, lanh lợi, sắc sảo, da dẻ bóng bảy, mịn màng. Nếu lấy sống mũi làm đường thẳng đứng ở chính giữa mặt thì điểm giữa của đội dài của nó (tức điểm giữa chiều dài của đầu) có khác nhau tuỳ theo với tuổi tác. Lúc mới sinh ra thì điểm giữa của độ dài của nó ở giữa hai bên lông mày, hai mắt thì ở phía dưới điểm giữa đó một chút. Về sau, cùng với sự lớn lên của tuổi tác, tu vi tron doi xương mặt và xương mũi phát triển dài thêm ra, thì điểm giữa đó dần dần chuyển dịch về phía dưới, đến khi thành niên rồi thì điểm giữa này tương hợp với mức ngang bằng hai mắt.
Dáng nét mặt khác thường có thể chọn ra khai loại: Một là có tính chất tạm thời, hai là có tính chất vĩnh cửu. Có những trường hợp là do hoàn cảnh, có những trường hợp là do bởi nhân tố tinh thần tạo nên, có những trường hợp là do bệnh tật có tính bẩm sinh hoặc bệnh tật khi lớn lên tạo ra.
Dáng nét mặt khác thường không những ảnh hưởng đến dung nhan con người, mà còn có thể là bằng chứng dùng để tham khảo chẩn đoán là co thể sắp có bệnh hoặc đã mắc những bệnh tật gì rồi. Ngoài xem tuoi, xem tướng, thì xem dáng nét mặt cũng đoán được nhiều điều:
1. Dáng nét mặt phù thũng: Khi phù thũng ở mặt, lấy tay trỏ ấn vào ngoài da trước trán, thấy hình thành vệt lõm tạm thời. Trường hợp như vậy nói chung thường thấy ở những ngườibị bệnh thận, bệnh tim, cũng có thể thấy ở những người bị bệnh đái đường nữa.
2. Dáng nét mặt béo giả tạo: Trên mặt biểu lộ ra nét ngờ nghệch, cứng đơ như đeo trăn mặt một cái gì vậy. Trường hợp này phần lớn có ở những người bị viêm não, bị tê liệt, run lẩy bẩy.
3. Dáng nét mặt như cười gượng: Răng nghiến xít lại, cơ mặt co giật, tay chân run lẩy bẩy, đó là dáng nét điển hình của những người bị cảm gió.
4. Dáng nét mặt sợi hãi: Nhãn cầu lồi ra, mắt ánh lên sáng quắc, có những biểu hiện sợ hãi, thường thấy ở những người mà cơ năng sinh lý của tuyến giáp trạng quá mức bình thường làm lồi nhãn cầu ra.
5. Dáng nét mặt hùng hổ, dữ tợn: Các khớp xương và da trên mặt ở trạng thái tăng sinh, thường thấy ở những người bị bệnh phong ở dạng lở loét, cũng thấy ở những người bị mắc bệnh máu trắng có tính chất tế bào limpha.
6. Dáng nét mặt hiện rõ hai mảnh (múi) nhọn: Hai má đỏ sạm, môi miệng bầm tím, lòng dạ hoảng hốt, thở hổn hển, thường thấy ở những người bị bệnh tim có tính phong thấp và những người hẹp hai lá van tim.
7. Dáng nét mặt tròn bầu bĩnh: Mặt như trăng tròn, da ửng đỏ, thường có kèm theo cả mụn trứng cá ở mặt và râu lún phún, thường thấy ở những người màng thuần tuý tăng nhiều (bệnh tổng hợp Cushing) và những người sử dụng dài ngày kích thích tố màng tuyến thượng thận.
8. Dáng nét mặt của bệnh to béo ở đầu tay chân. Đầu to ra, mặt dài ra, cằm dưới to ra và nhô ra phía trước, hai xương to ra, tai mũi nở to ra, môi, lưỡi cũng dầy lên.
9. Dáng nét mặt tê liệt một bên: Động tác biểu lộ tình cảm ở một bên mặt hoàn toàn bị tê liệt, trán không có nếp nhăn, mắt dãn to ra, rãnh mép mũi bằng phẳng, mép trệ xuống, thường thấy ở những người bị tê liệt thần kinh mặt. Nếu có những triệu chứng trên mà mắt lại không thấy dãn to ra, thì có thể thấy ở những người liệt mặt ở trung khu mạch máu não.
10. Dáng nét mặt co giật một bên mặt: Cơ bắp ở một bên mặt co giật lộn xộn từng cơn một, có khi chỉ biểu hiện co giật trong nháy mắt (winking spasm) hoặc co giật ở mép. Những triệu chứng như vậy thường thấy ở những người mắc di chứng sau khi bị tê liệt thần kinh mặt và đau đôi thứ năm thần kinh não và có trở ngại ở thần kinh trung khu.
11. Dáng nét mặt bị huỷ hoại: Dáng nét mặt bị huỷ hoại là chỉ hiện tượng mặt do vì bị một bệnh nào đó làm cho dáng nét mặt bị huỷ hoại, không còn được bình thường như trước nữa. Có người thì chỉ là bị huỷ hoại đến dáng nét mặt, có người thị bị ảnh hưởng cả đến ngũ quan nữa, hoặc khi những chỗ bị huỷ hoại đã khỏi thì hiìn thành các vết sẹo dúm dó không phẳng phiu như bình thường. Những triệu chứng đó nói chung có thể thấy ở những người bị mắc các chứng bệnh như giang mai, bị mụn nhọt sau khi đã lành khỏi, bị bệnh phong, bị ung thư da ác tính, bị bệnh do chân khuẩn ănở tầng sâu bên trong, bệnh ghẻ cóc ...
12. Dáng nét mặt tăng thực thể: Nếu thấy các trẻ nhỏ có một dáng nét mặt đặc biệt khác như sống mũi rộng bằng phẳng, hàm cứng vổng lên, lợi răng nhô chìa ra ngoài, hàng răng không đều và khít, môi miệng dày ra, môi trên vểnh lên, mặt biểu hiện ra dáng nét đờ đãn, ngơ ngác, thì cần nghĩ đến khả năng tăng thực thể, béo ra. Dáng nét mặt như vậy gọi là "dáng nét mặt tăng thực thể".
13. Dáng nét mặt đỏ gay ("mặt Quan Công"): Khi bị các bệnh như cao nguyên, bệnh tim do bị bệnh phổi gây nên hoặc bệnh tiềm thuỷ, có thể thấy dáng nét mặt như người say rượu, mặt đỏ gay, được coi là "mặt Quan công". Đó là do hồng huyết cầu trong huyết dịch thì thiếu oxy mạn tính lâu ngày gây ra, đã tăng lên nhiều một cách khác thường gây ra hiện tượng đó. Lúc bấy giờ, hồng huyết cầu trong huyết dịch có thể cao gấp một hai lần bình thường gọi là chứng bệnh hồng huyết cầu chân tính tăng nhiều.
14. Dáng vẻ mặt của những người bị ốm nặng: Dáng vẻ mặt gầy đi ghê gớm, trông người đau khổ, rầu rĩ, sắc mặt vàng bệch, xương gò má dô ra, mắt sâu hõm vào, tính đàn hồi của da kém. Hiện tượng đó thường thấy ở những người mắc các loại chứng bệnh tiêu hao mạn tính, như bị lao nghiêm trọng hoặc khối u thời kỳ cuối.
15. Dáng vẻ mặt của những ngườ cơ năng tuyến giáp trạng quá mức bình thường: Cơ mặt gầy sút, nhãn cầu lồi ra, người có vẻ nôn nóng, dễ bực tức, có khả năng cơ năng của tuyến giáp trạng quá mức bình thường.
16. Dáng vẻ mặt của những người bị bệnh thương hàn: Trông dáng người lạnh lùng, phản ứng của nét mặt chậm chạp, uể oải, nói không ra hơi, có lúc còn xuất hiện lú lẫn, ấp a ấp úng, những hiện tượng đó thường thấy ở những người bị mắc các chứng bệnh có tính chất suy nhược, nhiệt cao như thương hàn, viêm màng não, viêm não.
Còn có thể nêu ra một số dáng nét mặt và sự biểu lộ tình cảm ở trạng thái bệnh tật nữa. Nếu được sự hướng dẫn của hững bác sĩ giàu kinh nghiệm mà lại chú ý để phân biệt rõ khi quan sát, tận mắt nhìn kỹ thì như vậy, những ấn tượng trong đầu óc sẽ càng sâu sắc hơn.